menu

Có một đạo Phật như thế

View: 1036 -     Bùi Tín       24/03/2019 06:03:48 pm
Có một đạo Phật như thế
Có một đạo Phật như thế
(BBT - PGDT): Bùi Tín, cựu Đại tá quân đội Nhân Dân Việt Nam, cựu đảng viên, cán bộ cao cấp của đảng CSVN, nguyên là Phó Tổng Biên Tập nhựt báo Nhân Dân, kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhựt. 

Sau chuyến công vụ tại Pháp vào tháng 9 năm 1990. Chứng kiến các phong trào dân chủ tại các nước cộng sản Đông Âu ngày càng thắng thế, và Việt Nam cũng bị buộc phải mở cửa giao thương kinh tế với thế giới tự do, đồng thời vẫn xiết chặt các lĩnh vực chính trị và văn hóa.

Tháng 11 cùng năm, ông phổ biến bản Kiến Nghị Của Một Công Dân, kêu gọi Hànội tiến hành đổi mới triệt để, xây dựng một xă hội thực sự dân chủ, thực sự tự do, đưa cả nước tiến theo kịp thế giới. Cũng bắt đầu từ đó ông bị khai trừ khỏi Đảng.

Mùa hè năm nay, ông có dịp hành hương thăm viếng, tu tập tại Làng Mai. Chuyến đi đã để lại cho ông nhiều ấn tượng đẹp, ông nói : "Cuộc đời còn lại của tôi mang dấu ấn cuộc hành hương ngắn ngủi này". Đó  cũng là lý do để chúng ta có dịp chia sẻ với ông qua bài này. Cố nhiên đây là cái nhìn rất riêng tư của ông, không nhất thiết phải phản ánh đúng về hình ảnh và nội dung rất đa dạng của Làng Mai.



Phần 1:

Duyên hạnh ngộ với làng Mai:

Tôi nghe nói về làng Mai từ lâu. Trước đó là làng Hồng. Không phải là làng trồng hoa hồng, mà là cây hồng ăn quả, như hồng Lạng sơn ở bên nhà. Trồng hồng không được tốt, quả không sai, không ngọt, nên chuyển sang trồng mai. Mai cũng không phải mai hoa vàng, như ở miền Nam nước ta, màu vàng rực vào dịp Tết. Mai đây thật ra là mận, là prunier, là thổ sản danh tiếng miền Dordogne, Tây nam nước Pháp. Cả miền rộng này bạt ngàn là mận, nổi tiếng nhất là Agen. Quả mận Agen, màu tím đậm, thơm ngọt sấy thành mứt, tiêu thụ khắp nước Pháp, xuất khẩu đi toàn thế giới cùng với rượu đỏ Bordeaux.

Từ bé tôi đã có duyên với đạo Phật. Gia đình tôi có 10 anh chị em, tôi là thứ 8. Trước tôi là 7 người chị. Mẹ tôi sinh tôi trong một thai đôi, có bọc, một gái ra trước bị ngạt, và tôi ra sau, thoi thóp. Từ mấy năm trước, mẹ tôi kiên trì cầu tự, khấn xin, qua các ngôi chùa nổi tiếng vùng Nam Định, Ninh Bình và Hà đông, mới sanh được mụn con trai. Ngôi nhà nhỏ ở quê lại gần chùa làng. Không nhà nào gần chùa đến thế. Chỉ cách nhau con đường hẻm của xóm gọi là xóm Chùa. Cổng nhà và cổng Chùa hơi chếch nhau, cách nhau chỉ 5 mét. Hồi bé, các chị em tôi hay rủ nhau lẻn sang chùa hái đầy túi quả nhót từ vàng đến đỏ chót, tay áo luôn lấm chấm những hạt trắng li ti do vỏ quả nhót chà vào để lại. Sư bà và sư cô không đuổi còn vẫy vào xoa đầu rồi hái cho những quả táo con con.

Chuông chùa ngân vang dài… và tiếng mõ đều đều, đều đều… là những âm thanh quen thuộc nhất đưa tôi vào giấc ngủ, với những chuyện mẹ tôi kể về thái tử Ấn độ đi ra 4 hướng cửa thành gặp 4 nỗi khổ đau sinh, lão, bệnh, tử rồi ra đi tìm đường cứu nhân độ thế.

Cho nên mùa thu 2006 này, tôi về làng Mai, trước tượng Phật, nghe tiếng chuông chùa âm vang, tiếng mõ đều đều, ăn chay liền mười ngày, ngắm mái chùa cong cong bên hàng cây mận trĩu quả … cảm giác đầu tiên của tôi, cảm giác kéo dài cho đến khi rời làng luôn là trở về quê mình, làng mình, nhà mình, chùa làng mình.

Có một đạo Phật nhập thế:

Làng Mai luôn mở rộng. Từ xóm Thượng xuống xóm Trung là 2 kilômét, xuôi 3 kilômét nữa là xóm Hạ, vòng sang phía Tây 2 kilômét là xóm Sơn hạ. Mấy năm nay, làng phát triển hẳn sang phía Đông gần 40 kilômét, lập nên xóm Mới, rộng hơn, khang trang hơn. Vùng Dordogne ở Tây Nam nước Pháp là một vùng hữu tình, giàu có, nhiều đồi thoai thoải phơi nắng, lại không xa Đại Tây Dương. Vườn nho nối tiếp xen với vườn mận, vườn hướng dương điểm xuyết những vạt rừng thông nhân tạo. Những ngôi Chùa, lầu chuông, thiền đường, cư xá, nhà ăn, nhà khách, khóm trúc, hồ sen… của làng Mai, xen với nhà một số cư dân Pháp bản địa lâu đời, với chuồng trại nuôi bò, lò gạch ngói, nhà thờ Thiên chúa của làng xưa làm cho phong cảnh của toàn vùng thêm sinh động.

Người gốc Việt tùy lúc chiếm hơn hay kém một nửa dân số làng Mai. Một nửa là người phương Tây về đây tu lâu dài hay tu tập ngắn hạn, - 1 hay 2 tuần lễ, từ các tỉnh nước Pháp, từ Ý, Đức, Anh, Bỉ, Hà lan, từ Tây ban nha, Bồ đào nha, từ Mỹ, Canada, Úc, Tân tây lan; ngoài ra có cả người Nhật, Ấn độ, Thái lan, Đại hàn, Philippin, lại có cả người Balan, Nga, Do thái, Palestin… Họ ở phần lớn xóm Thượng. Giữa mùa hè, nhiều gia đình mang theo con lớn nhỏ, nên có cả một xã hội thiếu niên quốc tế ở đây. Rước đèn trung thu, đèn đủ kiểu do các em tự làm lấy, hướng dẫn bởi các ni sư ni cô khéo tay yêu trẻ, kéo dài hàng cây số dưới ánh trăng thu, các em bé tý mới 3 - 4 tuổi dẫn đầu, cuối là các anh chị 16, 18 tuổi, thật hồn nhiên trong tiếng trống và tiếng hát.

Ở trong nước tôi cứ nghĩ người đi tu phần lớn là người yếm thế, chán cuộc đời trần thế, gặp những nghịch cảnh gia đình hay xã hội. Đây cũng có những trường hợp như thế, nhưng có vẻ không nhiều. Khá nhiều người có kiến thức khá cao, thành đạt trong cuộc sống, những bác sỹ, luật sư nhà cao cửa rộng, lương bổng cao, những nhà vật lý, toán học, triết học, giáo sư… muốn đi tìm ý nghĩa từ cuộc sống, của cuộc sống và cho cuộc sống trên đời này. Họ đến đây để nghiên cứu, nghiền ngẫm và thực hành luôn, thực nghiệm luôn, hành đạo luôn đạo Phật, một đạo Phật vừa cao siêu, vừa gần gũi, vứa như khó hiểu vừa dễ cảm thụ bằng cả lý trí, linh tính và trái tim.

Đến đây, ai cũng hiểu sâu 3 viên ngọc quý đầu tiên - 'Tam Bảo', là Phật, Pháp và Tăng. Phật là một vị tiêu biểu, là Thày dạy, là Ngôi sao chỉ đường, là Lãnh tụ tinh thần, là Nguồn Sáng, thông thường cũng là Bụt, là con người thật do dày công tu luyện được soi sáng thành Phật. Pháp là hệ thống lý luận, chân lý, giải thích cuộc đời và muôn vật, hướng dẫn việc tu luyện, cách sống để con người và loài người có được niềm hạnh phúc, an lạc ngay trong cuộc đời này. Pháp vừa mênh mông vô tận, thiên kinh vạn quyển, lại có thể thu gọn trong 260 từ trong Kinh Bát nhã, lại cô đọng chỉ trong vài câu, vài từ; ở đây chú trọng việc thực hành, đặc biệt là thực tập theo 5 giới, tức là 5 phép tu tập chánh niệm. Tăng là tăng thân, là tập thể anh chị em gần xa cùng thoát giới đi tu theo chân Phật, ở khắp mọi nơi trên thế giới, cùng chung một bậc Thày, cùng chung một Đạo pháp. 

Tôi dự khá nhiều cuộc pháp thoại, thuyết trình về 'pháp', nhiều cuộc trao đổi, hỏi đáp ngay ở hội trường - Thiền đường, nhiều buổi thảo luận, tu tập trong các nhóm nhỏ, đều nói về cuộc sống trong đời thường, của cá nhân, gia đình và xã hội. Giống như ở đời thường, không khí sinh hoạt khi thì nghiêm trang đôi lúc căng thẳng, xúc động, có nước mắt, có nụ cười, nhưng nét riêng ở đây là luôn thân ái, chăm chú, thông cảm với nhau, giúp nhau hiểu rõ sự đời trong tình thương. Ngay ở hội trường lớn, mỗi khi tiếng chuông vang, ai nấy đều yên lặng, nghiêm trang, lắng sâu trong suy nghĩ, để rồi sau đó rộ lên tiếng cười vang động, vui nhộn và sảng khoái, thoải mái không cần kiềm chế.

Đạo Phật ở làng Mai là đạo Phật nhập thế, nhập cuộc đời, nên dễ hiểu, dễ gần, dễ tiếp thu. Bài giảng tiếng Việt, dịch tức thời ra các tiếng Anh, Pháp, Đức, cũng như các khẩu hiệu tiếng Việt, châm ngôn tiếng Việt, sách báo, băng đĩa tiếng Việt được dịch và in ngay tại chỗ. Khẩu hiệu đây đó: 'Từng bước chân thảnh thơi', 'An lạc ngay lúc này', 'Vui với từng hơi thở', 'Bụt ở ngay trong ta'…

Sáng nghe tiếng chuông vang khi trời đang rạng, hãy 'thiền' vài phút với lời tự hẹn: Đón chào 24 giờ tinh khôi của ngày mới; tự hẹn sống an vui, có ích cho mình và xung quanh, tránh mọi cám dỗ có hại.

Khi ngồi vào bữa ăn, nghe chuông ngân, hãy 'thiền' vài phút nữa: ta biết ơn những ai làm nên bữa ăn này, trồng lúa, rau, vận chuyển, chế biến; ta nhớ đến bao người thiếu ăn trên thế gian này; hãy ăn ngon lành, nhai kỹ cho cơ thể ta khỏe khoắn. Trước đó, hãy tự lấy thức ăn vừa đủ cho mình, không thiếu không thừa, lấy bao nhiêu ăn cho hết, không lãng phí, quý trọng mỗi sản phẩm xã hội. 

Một đạo Phật cao siêu mà hồn nhiên:

Ở làng Mai, tôi gặp mấy chục sinh viên nam nữ Việt từ Sàigòn, Huế, Cần thơ, Luân đôn (Anh), Boston (Mỹ), Sydney (Úc) … đến dự lớp học 1 hay 2 tuần lễ, vào dịp nghỉ hè. Các bạn trẻ làm quen nhau rất nhanh, để lưu luyến vô cùng khi tạm biệt. Họ đều là du sinh, học khoa lịch sử, văn học, thông tin, báo chí. Họ cũng kết bạn nhanh với các sinh viên gốc Mỹ, Anh, Pháp, Canada. Họ cùng nhau tập những bài hát tiếng Việt và tiếng Pháp do các thày cô ở làng Mai sáng tác. Các em mang theo đàn ghi-ta, sáo để chơi nhạc, ca hát với nhau.

Đến đây, các em làm quen với những khái niệm triết học, tâm lý, tâm linh khá trừu tượng, nhiều khi cao siêu, ban đầu khó hiểu. Nhân quả, tương tác, Niết bàn, khoảng không, khoảng rỗng, vô thường, vô ngã, vô minh, không bắt đầu không kết thúc… Hơn nữa, lại còn: 'Ngũ uẩn giai không' là gì; 'chư pháp không tướng' là gì; rồi những con số: Tam bảo, Tứ diệu đế, Ngũ lực, Lục căn, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên …

Các khái niệm cao siêu được giảng giải theo lối phổ cập dân gian, có ví dụ dễ hiểu, từ thấp lên cao, từ cụ thể đến trừu tượng. Tôi thử hỏi lại 2 em, các em đều hiểu khá rõ. Các bà các chị lớn tuổi cảm nhận được trên đại thể, khi trao đổi với nhau mới vỡ lẽ thêm…

Tôi hiểu dần vì sao làng Mai có thanh niên xuất gia để đi tu cũng như về tu học ngắn hạn nhiều đến vậy. Các em đều có chí, ham học, cảm thấy e ngại cái xã hội xô bồ sùng bái vật chất coi nhẹ tâm linh, nhất là cái xã hội trọc phú đầy cạm bẫy ở bên nhà, luôn đe dọa 'nuốt chửng' tuổi trẻ bất cứ lúc nào. Các em rất chăm chú nghe pháp thoại, còn ghi

Ở làng Mai, không khí yên tĩnh kéo dài thỉnh thỏang lại rộ lên những ngày hội tấp nập đông vui, có trống, có cờ phướn, múa rồng múa lân, mừng xuân, trồng cây nêu, giỗ Tổ, Phật đản, lễ Vu lan, những buổi ngâm thơ, ngày Hội hoa Thủy tiên, Hội hoa Mai, Hội hái mận, những ngày hội làng thắm tình quê hương…Tôi dự đám cưới rất vui ở xóm Mới, cô dâu là em một ni cô ở đây, 'chàng' là bác sỹ cùng ở San José (Bắc Cali) mới sang hôm trước.

Cuộc sống cao siêu khi nghe giảng, khi trầm tư, lúc ngồi thiền, hài hòa với những giờ phút sống hiếu động hồn hiên giữa thiên nhiên. Dự những cuộc múa tập thể và trò chơi tập thể, rồi đêm lửa trại ở xóm Trung và xóm Thượng, tôi thấy rõ thêm vì sao tuổi trẻ thích về đây sống. Có lúc như cuộc sống trong tổ chức Hướng đạo thời trẻ của tôi. Những trò chơi khỏe, hồn nhiên, em bé 8-9 tuổi cùng cụ già 60-62 tuổi chơi với nhau, theo vòng tròn lớn nhỏ, bỏ khăn; chim bay, cá lặn; bịt mắt bắt dê; chuyển bóng; kéo co; rồi tìm nhau trong rừng, tìm phương hướng, tìm các chòm sao trên trời, hái hoa hồng để trả lời câu đố và chọn bài hát…Tuổi già về đây như trẻ lại giữa trẻ nhỏ và thiên nhiên. Rồi những vở kịch nho nhỏ tự biên tự diễn. Cái thú vị là nội dung được hướng dẫn và khêu gợi để thực tập chánh niệm, hiểu sâu thêm các buổi học, về cuộc đời của Bụt, về tình thương yêu con người, về cái Thiện và cái Ác, về Chính và Tà, về yêu quý thiên nhiên và gìn giữ môi trường…


* Phần 2:

Có một đạo Phật nhiều khoa học, ít thần bí:

Đã có bao nhiêu trường phái truyền bá đạo Phật. Từ Đại thưà đến Tiểu thừa, từ gốc Ấn độ, Tây tạng, qua Trung hoa, Tich lan, đến Thái lan, Cambốt, xuống Nam dương, sang Nhật bản. Có những trường phái truyền bá những điều thần bí, siêu nhiên, đầy phép thần thông kỳ ảo. Chư thày cô làng Mai đang xây dựng một đạo Phật truyền thống, thịnh hành từ đời Trần, mang đậm bản sắc Việt, lại khá là hiện đại, dựa trên những khám phá mới mẻ nhất về sinh học, vật lý, hóa học, toán học, thiên văn, tâm lý học…để lý giải cuộc sống muôn hình muôn vẻ.

Có cả một lớp trí thức cao cấp xuất gia và về dự tu học ở đây. Tiến sỹ, kỹ sư, bác sỹ, luật sư, nghiên cúu sinh, du sinh chiếm tỷ lệ không nhỏ. Các bài giảng phổ thông, dễ hiểu, có khi mở đầu bằng hỏi và đáp một thiếu niên Pháp hay Mỹ mới 12 tuổi, rất vui vẻ sinh động, hoặc mở đầu bằng thử ngắm cho sâu một chiếc lá phong để 'nhìn' thấy trong đó áng mây, mặt trời, giọt mưa, hạt mầm, hệ thống 'nhà máy' sản xuất chất lục diệp tố, không quên người trồng chăm sóc cây, để rồi cuối cùng có thể nhận ra cả vũ trụ chứa trong một hạt bụi trần. Kết quả nghiên cứu về tế bào, về ADN, về di truyền, về kỹ thuật tạo hàng lọat cơ thể sống từ một tế bào - 'clonage', chứng tỏ trong cái riêng đều có cái chung, cái 'một' chứa cái toàn thể, phép nhiệm màu bao trùm khắp mọi nơi; con người ngày càng hiểu ra biết bao điều bí ẩn, chế tạo ra biết bao kỹ thuật tân kỳ như máy bay, tàu ngầm, vô tuyến truyền hình, điện thoại cầm tay, kính thiên văn (với khám phá ra big bang và lỗ đen), máy computơ cá nhân, để …'ngộ' ra rằng các nhà khoa học thật ra vẫn chưa hiểu biết gì cho thấu đáo về vũ trụ và con người cả; chỉ một tế bào mà hàng triệu điều bí hiểm.

Hè này có một tuần lễ 800 nhà khoa học và yêu khoa học thuộc 20 nước về làng Mai trao đổi nghiên cứu về tế bào vỏ não, tìm hiểu sâu thêm một loạt khái niệm: xúc cảm, tình cảm, tiềm thức, nhận thức, linh tính và tâm linh, mật thiết liên quan đến những khái niệm Thân và Tâm, rồi: Thọ, Tưởng, Hành, Thức thâm thúy của đạo Phật.

Ở làng Mai không còn những nhận thức thô thiển, như có một Thượng đế, một ông Phật nào đó giống như con người, có đầu mình và tứ chi, sống ở trên trời cao, ngày đêm ban phước lành cho chúng sinh; mà Phật ở ngay trong ta, trong Pháp, trong Tăng, trong ý thiện, việc thiện ta và mọi người cùng làm cho cuộc đời chung đỡ khổ, vun trồng yêu thương và hạnh phúc ở khắp nơi ngay trong cuộc đời này. Phật cũng ở khắp mọi nơi trong một vũ trụ vừa hài hòa theo quy luật chặt chẽ, lại cũng đầy những phức tạp ngẫu nhiên vô thường.

Khoa học ngày nay cũng chứng minh rằng thế giới vũ trụ là không có bắt đầu, không có kết thúc; sự vận động chuyển hóa là không cùng; cái này khác cái kia, cũng lại không khác cái kia; một là tất cả, tất cả cũng lại là một; phải trái trên dưới, một hai, đông tây nam bắc, màu sắc, mùi vị đều là khái niệm chủ quan của con người. Bụt dạy: bất sinh bất diệt, bất cấu (nhơ bẩn) bất tịnh(sạch), bất tăng bất giảm; vô vô minh diệc vô vô minh tận (không có ngu dốt mà cũng không bao giờ hết ngu dốt); vô lão tử diệc vô lão tử tận (không có già và chết, mà cũng không hết già và chết). Khoa học và phật giáo gật gù tâm đắc, khoác vai nhau chặt. Thật là vui, thú vị.

Có một đạo Phật lạc quan yêu cuộc đời này:

Đã có thành kiến cho rằng đi tu là chịu khổ hạnh. Có nhiều trường phái tu khổ hạnh, hành xác, đi chân đất, nhịn đói, chịu khát, nằm gai nếm mật, chịu rét, từ chối nền văn minh vật chất, chịu khổ để cứu nạn.

Ở đây có sự khổ luyện, sự kiên trì thoát phàm tục, tinh tiến tâm linh, nhưng không khổ hạnh hành xác. Các thày cô ở đây được luyện để yêu đời, quý trọng cơ thể mình, cảm nhận hạnh phúc nội tâm cho mình và cho xung quanh trong mỗi một phút sống. Nụ cười làng Mai sao mà đẹp. Nụ cười ngầm, hơi tủm tỉm khi gặp nhau, nhìn nhau, như nói rằng: chúng ta là anh chị em! Buổi sáng khi mới gặp lại nhau, mọi người chắp tay trước ngực, hình búp sen bên trái tim, như một lời chào thân, trao tặng nhau một búp sen thơm mát. Người phương Tây về đây cũng vui lòng tiếp nhận cách bắt tay, cách ôm chào nhau chân thật: nhìn vào mắt nhau với tình anh chị em, ôm nhau cũng nghĩ đến nhau thật lòng, xoa tay nhẹ vào lưng nhau nếu tự thấy cần; không còn kiểu bắt tay qua loa, áp 2 bên má một cách qua quít, có khi vô cảm. Các ni cô gọi đây là 'thiền ôm', ôm với tình thương chân thật; tất nhiên các ni cô trẻ chỉ ôm với người cùng giới.

Nét đậm đà của làng Mai là thức ăn chay mà ngon chi lạ, ngon lạ lùng. Các ni cô, ni sư rất coi trọng khoa nấu nướng, nâng bếp núc thành khoa học và nghệ thuật cao. Vệ sinh thì tuyệt hảo. Vườn rau tự túc sạch tuyệt đối. Từ rau muống, bắp cải, rau cải, rau cần, cà chua, cà rốt, đến bầu, bí, dưa chuột, mướp đắng, rau thơm: mùi, húng, tía tô, thìa là, diếp cá, bạc hà… cho đến hành, gừng, giềng… Đủ thứ, như ở quê mình, tươi ngon. Các thày cô nhà bếp luôn nói đến ngon lành, ngon đi với lành. Lại còn cân bằng âm dương, theo mùa, thứ này đi với loại rau kia, hỗ trợ bổ xung cho nhau, bổ dưỡng lại ngon miệng. Đậu phụ hấp, ninh, rán, sào với các thứ rau khác nhau, với biết bao loại đậu, loại khoai, sắn, giá, nấm… làm cho thức ăn phong phú, không bữa nào giống bữa nào suốt trong một tuần. Nộm và nước chấm cũng nhiều lọai, cùng vừng, lạc, dấm, dầu ô-liu, gừng, xả. Cơm, xôi đủ loại, bánh mì, cháo…tha hồ lựa chọn. Người phương Tây có thể dùng bơ, pho mát, sữa bò, trứng (loại không ấp thành gà con được).

Chè và bánh do các bà các chị người Huế hướng dẫn sao mà phong phú, tinh tế, ngon lành đến vậy. Từ chè hạt sen, đậu xanh, đậu ván, đậu đen đến bánh bột lọc, bánh giò, bánh xèo, bánh xu xê, bánh Trung thu…

Điều chính ở đây là quan niệm của Phật pháp nhập sâu vào bộ máy hậu cần và nuôi dưỡng con người. Hãy chăm nom thật tốt cơ thể chúng sinh, hãy mang chánh niệm từ khi trồng rau, tưới cây cho đến khi rửa sạch lương thực để chế biến; hãy mang chánh niệm vào mỗi nhát dao thái củ khoai củ cà rốt cho đều đặn, vuông vắn, mỹ thuật. Hãy mang chánh niệm vào việc nấu nướng để thấu hiểu rằng biết bao công sức của con người làm nên gạo, khoai, rau đậu này đây, ta phải nối tiếp để phục vụ lại cho chúng sinh đến mức cao nhất, cho mọi người ăn thật ngon lành để làm điều thiện cho đời này.

Các ni cô và ni sư - hơn 100 người tu ở đây, phần lớn là còn trẻ, dưới 36 tuổi, gọi nhau bằng sư ông, sư bác, sư chú, sư cô hay sư anh, sư chị, sư em, như trong một nhà. Mỗi người còn nhận một hai người bạn tâm giao thân thiết nhất để kết nghĩa, giúp nhau tu luyện tiếp thu sâu đạo pháp, tuyệt đối tránh phạm giới, trước hết là 5 giới gồm có: không sát sinh, không ăn cắp, không tà dâm, không dối trá, không uống rượu và dùng ma túy…

Không khí an nhiên tự tại ở làng Mai còn được xác lập tự nhiên, bền vững vì trong cư xử hàng ngày, nội bộ gia đình lớn này thường nhắc nhau dùng 'ái ngữ', tránh dùng những từ ngữ khó nghe. Tôi hỏi mấy thầy: như vậy có phải là bỏ qua, nhân nhượng với nhau khi có mâu thuẫn để giữ hòa khí? Thày Pháp Ấn là 1 trong 13 giáo thọ (như là trợ giáo về giảng pháp) ở làng Mai nói ngay: không phải vậy; pháp đạo, kỷ luật ở làng Mai nghiêm, không bỏ qua sai lầm, vì bỏ qua là có hại cho anh chị em mình, là thiếu thương yêu nhau; 'ái ngữ' là lời nói xuất phát từ yêu thương, đã từ yêu thương thì sẽ được tiếp nhận vào tim người mình nói chuyện, không phải chỉ là chọn hình thức chữ nghĩa cho êm tai. Khi nóng mặt lên, tức giận, thở gấp thì không thể có 'ái ngữ' . Khi tỉnh táo, thở sâu, có tình thương lập tức có 'ái ngữ' đầy sức thuyết phục dù nội dung có mạnh.

Không khí yêu đời trẻ trung ở làng Mai còn nhiều biểu hiện khác. Bên dàn đồng ca, cùng niệm kinh Bụt bằng tiếng Việt, Anh, Pháp, Đức, còn hát ca nhiều bè, còn có nhóm diễn kịch ngắn, tập đàn dương cầm, guita, thổi sáo, còn xưởng nhỏ tập nặn tượng, vót tre làm diều, nhóm phụ trách mầm non, thiếu nhi, nhóm hội họa, cắm hoa, chụp ảnh, đánh cờ, - cờ tướng và cờ quốc tế, cho đến lớp học tiếng Việt… Thật vui khi được nói tiếng Việt với các ni cô Từ Nghiêm (người Mỹ), Tín Nghiêm (Đại Hàn), với các thầy Pháp Ý (người Y), Pháp Sơn (Tây Ban Nha), Pháp Hộ (Thụy Điển)… Nhiều người nói sõi như người Việt mình vậy.

Có một đạo Phật rất dân tộc cũng khá hiện đại:

Làng Mai có một thư viện khá lớn. Riêng Thiền sư Nhất Hạnh có tủ sách riêng đồ sộ, tiếng Pháp, Anh, Đức, Ấn độ, Nhật, chữ Hán, chữ Phạn, chữ Nôm, tư liệu về lịch sử Phật giáo Tiểu thừa, Đại thừa, về lịch sử Phật giáo Việt nam từ xa xưa qua thời Lý, Trần đến nay. Nhiều kinh sách được lược dịch hoặc tóm tắt chuyển sang tiếng Việt. Bút lực của Thày Nhất Hạnh sung mãn, có đến 60 cuốn tiếng Việt do nhà xuất bản Lá Bối phát hành, cùng với những tập thơ thiền, một số bài thơ được phổ nhạc. Nét dân tộc khá rõ là gắn bó thờ cúng tổ tiên với đạo Phật ở làng Mai này.

Nét hiện đại của làng Mai cũng rất rõ. Giờ giấc nghiêm đến từng phút. Sáng dậy đúng 5 giờ rưỡi khi chuông lớn vang lên. Đúng 8 giờ rưỡi buổi giảng trên hội trường bắt đầu. Giảng bằng tiếng Việt, hoặc tiếng Pháp, Anh, tùy theo ngày, được dịch ngay sang các tiếng khác. Ngoài những loa đặt các góc phòng còn có loa tại các phòng nhỏ hay tại các cụm di động có mái che trên bải cỏ ngoài sân rộng, khi người dự quá đông. Các buổi pháp thoại đều được ghi bằng hình ảnh và âm thanh, buổi tối được nhân bản vào băng, vào đĩa để phổ biến ngay sáng hôm sau. Bộ phận ngoại ngữ và kỹ thuật có trình độ chuyên nghiệp cao, tháo vát, cập nhật với kỹ thuật truyền thông hiện đại quốc tế.

Văn phòng làng Mai cũng khá là chuyên nghiệp. Kế hoạch dự kiến cho cả năm, phân công cụ thể, có thời gian biểu hàng tuần cho từng xóm. Khách đến và đi thường xuyên, bằng đủ phương tiện, xe riêng, xe lửa, xe buýt, máy bay, đón và đưa, đâu ra đấy. Thư đến và thư đi, email gửi và nhận tới tấp. Quan hệ với chính quyền địa phương, các quận, các tỉnh và thành phố Bordeaux rất chặt. Từ sản xuất, vận chuyển, bưu điện, thuế khóa, vệ sinh môi trường, cung cấp điện nước, đường sá cầu cống, xây dựng, quản lý đất rừng…đâu có đơn giản. Bác Cả, hơn 70 tuổi người có công thăm dò, quy hoạch và xây dựng làng Mai từ những năm 1986, 87 cho biết những gian khổ về mua đất, dựng nhà, cung cấp điện nước đến công trình vệ sinh, cống rãnh được khắc phục dần để có được cơ ngơi ngày nay.

Nét đẹp hiện đại, tiên tiến nữa tôi nhận ra ở đây là an ninh rất tuyệt. Người tứ phương đến tấp nập. Thế mà hầu như không có mất mát, trộm cắp, hàng chục năm nay vẫn vậy. Ở mỗi xóm có một góc đặt các thứ để quên, đánh rơi: mũ dạ, ô, dày, dép, kính mắt, bút, cả túi, ví tiền (với tiền mặt, thẻ ngân hàng, thẻ căn cước được giao lại cho người chủ) cặp, sách, túi lớn nhỏ, một vài đồ trang sức.

Tôi nghĩ đạo pháp nhập vào mọi người, điều giới thứ 2 (không ăn cắp) được thấm sâu, chúng ta là anh chị em thân thiết, hãy sống tốt, vun trồng điều thiện, tưới tắm hạt nhân trong sạch nảy nở trong lòng ta. Anh bạn nhà báo đi với tôi thủ thỉ: 'Thích thật, ở đây ngủ không cần đóng cửa, cả xóm không cần canh gác tuần tiễu, đồ đạc riêng để đâu yên đấy, không ai nhòm ngó đụng vào. Bao giờ cho mỗi làng mạc quê ta trong nước sống như thời Nghiêu Thuấn, như ngay làng Mai này! Cần gì đến chó Bécgiê, chuông báo động, máy quay phim dọc hàng rào và cổng ra vào. Thế này mới thực là hiện đại'.

Người phương Tây và trí thức trẻ gốc Việt sống ở đây tô đậm thêm tính hiện đại của làng Việt độc đáo này. Sách báo về khoa học tự nhiên và xã hội có nhiều người đọc. Mạng internet 'làng Mai' là mạng phong phú, kỹ thuật và mỹ thuật cao, lưu trữ tốt cả hình và tiếng, đứng hàng đầu trong làng mạng tiếng Việt. Các ni cô tiến sỹ, giáo sư, thạc sỹ, các ni sư cử nhân, bác sỹ, kỹ sư… ở đây đang cùng nhau học chữ Hán nôm, học tiếng Phạn, đọc thơ ca đời Lý Trần và nghiên cứu kho tàng ca dao Việt để cùng nhau trở về với dân tộc và đưa tâm linh dân tộc phát triển tới phía trước.

Các thày cô ở đây thật sự khiêm nhường, không muốn phô trương thành tích, làm đến đâu nói đến đó; thực tế một viện phật học dân tộc hiện đại, kết hợp nghiên cứu với giáo dục và thực hành đang được hình thành ở đây, được bà con ta ở hải ngoại và trong nước cũng như giới đại học quốc tế ngày càng biết đến.

Có một số chuyện bị hiểu lầm, hiểu sai, chư vị làng Mai vẫn cứ 'tự mình biết mình'; ở đây, tôi đọc được hơn chục bài thơ của Cụ Quảng Độ được thày Nhất Hạnh in và giới thiệu bằng nhiều bút danh khác nhau từ những năm 1985,86 ….Trong lịch sử Phật giáo dạy ở đây, công sức của chư vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất luôn ở vị trí trang trọng nhất.

Đạo Phật và thái độ đối với những người cộng sản:

Nhiều lần tôi hỏi chuyện các thầy cô ở đây về mối quan hệ giữa đạo Phật và đảng cộng sản. Các thầy cô phát biểu rất dè dặt thận trọng. Một thầy đọc khá nhiều sách mác-xít, từng học về lịch sử đảng cộng sản tại trường đại học sư phạm trong nước, cho rằng: "Chúng tôi luôn coi những người cộng sản cũng là những anh chị em mình trong gia đình dân tộc và cộng đồng loài người. Dù học thuyết họ theo đuổi đã từng 'vô minh', từng bắt các linh mục tu sỹ đi cải tạo, thực tế bắt làm khổ sai, phá đình chùa, quẳng tượng Phật xuống ao, nay họ đã có được ít nhiều 'tuệ giác' đối với tôn giáo. Làng Mai đề ra việc đối thoại và cầu nguyện đối với chính quyền và đảng cộng sản; đối thoại để nói thẳng thắn những điều cần nói không e sợ, quanh co; cầu nguyện là cầu nguyện chư Phật soi sáng cho mọi người cộng sản, nhất là những người cộng sản cầm quyền, làm nảy nở Phật tánh dù còn ít trong tâm họ, cho họ biết noi gương các nhà cầm quyền thời Trần, yêu thương và quý trọng người dân, dựa vững vào đạo đức và cuộc sống tâm linh…"

… "Chúng tôi cho rằng phục hưng đất nước phải do cả dân tộc cùng làm, theo nhiều giới nhiều cách khác nhau, mỗi người chung một tay, nhà chính trị, nhà lãnh đạo tôn giáo, nhà dân chủ, trí thức, kinh doanh, cùng dựa vào gốc dân tộc".

Tôi gặp anh bạn nhà báo F. Prévost ở làng Mai từ nước Bỉ đến, để tu tập chứ không để viết báo. Anh thuộc cánh tả, từ tuổi trẻ đã mê Staline - 'người cha của các dân tộc', mê ông Mao, ông Hồ, để rồi vỡ mộng cay đắng trước cả khi bức tường Berlin vỡ tan. Nay anh tìm hiểu sâu đạo Phật; vốn có khiếu trào lộng, anh so sánh 'đạo Cộng sản' với đạo Phật; cộng sản cũng có Phật, Pháp và Tăng của họ. 'Phật' là Marx, 'Pháp' là học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, 'Tăng' là đảng viên cộng sản đông đảo khắp nơi. Theo anh, Cộng sản là 'đạo Phật lộn ngược', đầu cơ lòng thiện của con người để hứa hẹn một thiên đường nhân ái bốn bể là anh em, không có bóc lột, đầu cơ nguyện vọng độc lập dân tộc không bị nô dịch, để dành độc quyền thống trị con người từ tinh vi đến đẫm máu nhất.

Anh nói đến học giả Jean François Revel (mới mất tháng 4-2006 ở tuổi 82) triết gia uyên thâm của cánh tả Pháp đã tỉnh ngộ để chủ biên cuốn sách đồ sộ 'Sách đen của chủ nghĩa cộng sản', với thống kê hơn 100 triệu sinh mạng chết thê thảm từ các cuộc thanh trừng, trại khổ sai, trại cải tạo, cách mạng văn hóa vô sản, quét sạch tôn giáo, những vụ án vu cáo gián điệp, phản động… Anh nói đến cái 'nghiệp' quá nặng của người cộng sản, đến nay nhiều người vẫn còn trong 'mê lộ', chưa chịu tỉnh…

* Phần 3 (tiếp theo và hết):

Có một đạo Phật có sức lan tỏa:

Tôi gặp một số cán bộ, đảng viên cộng sản từ trong nước về đây tu tập, tìm hiểu. Có người là giáo sư đại học, là cán bộ từng làm việc trong ủy ban kế hoạch nhà nước, là sinh viên đoàn viên đoàn thanh niên cộng sản. Có chị là đảng viên, chồng là trung tướng quân đội nhân dân về hưu, vốn là cấp dưới tướng Trần Độ. Duyên hạnh ngộ bắt nguồn từ chuyến về thăm quê hương của tăng thân làng Mai đầu năm 2005. Có ni sư đến từ Huế và Bảo lộc (Lâm đồng) về đây học, tự coi là về nguồn để tu tập.

Quả vậy, hạt giống tự làng Mai đã gieo và mọc ở vùng cố đô Huế, vùng Bảo lộc với các chùa Từ Hiếu và tu viện Bát Nhã, cả trên đất Hoa kỳ, nơi có chùa Lộc Uyển (ở Nam Cali), Đạo tràng Thanh Sơn và Tu viện Rừng Phong... Lại còn nhiều tập thể, nhóm cư sĩ làng Mai, rải rác trên đất Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Canada và cả ở trong nước.

Riêng số xuất gia nhập tăng thân làng Mai nay đã lên gần 300. Số đang xin nhập còn nhiều. Số cư sĩ, dự tu tập hàng năm, theo từng mùa từng khóa không kể hết.

Các thày làng Mai đã tổ chức những cuộc Pháp thoại và Thiền hành ở Roma và Londres, ở Marseille và New York, ở Hàng Châu (Trung quốc)….nữa, và tháng 10 này ở giữa Paris.

Bí quyết của sự lan tỏa từ làng Mai là những nét đặc sắc của một đạo Phật trở về với chính gốc gác của mình, cởi bỏ những thần bí quá siêu nhân để về với nhân thế trần gian, với mỗi bước chân thảnh thơi, nụ cười hé nở trên đôi môi, búp sen tinh khiết bên trái tim, bữa ăn luôn ngon lành, giấc ngủ luôn an bình, thế ngồi luôn vững chãi trên niềm tin.

Bí quyết của làng Mai còn là sự hòa hợp giữa các tôn giáo, coi các tôn giáo đều là anh em, không tranh dành, đố kỵ, đối lập nhau. Bouddha, Jésus, Mahomet đều là anh em. Ở làng Mai có linh mục Công giáo, có mục sư Tin lành, có người theo đạo Do thái, Ấn độ giáo, Anh giáo, không nhất thiết từ bỏ hẳn tôn giáo của mình, vẫn có thể tu tập Phật giáo. Từ làng Mai đã có sáng kiến một cuộc gặp các nhà lãnh đạo cao nhất các tôn giáo để cùng cất lên nguyện vọng hòa bình của thập đại chúng sinh, góp phần dập tắt ngay các lò lửa chiến tranh - những địa ngục phi lý trên trần gian tuyệt đẹp này.

Một đạo Phật không làm chính trị?

Về làng Mai, các thày và cô thường nói 'chúng tôi không làm chính trị'. Có lúc các thày nói: 'Làm chính trị, xin để dành cho các nhà chính trị ở ngoài đời, chúng tôi chỉ chuyên lo về tôn giáo'.

Hỏi chuyện các thày cô, trao đổi tâm tình với thày Nhất Hạnh, thỉnh thoảng tôi lại cười thầm một mình khi nhớ lại câu 'chúng tôi không làm chính trị'. Đây chỉ là một cách nói, có lẽ chỉ đúng trên một ý nghĩa nào đó.

Nhớ lại hồi chiến tranh, nhóm Phật giáo phản chiến, chống huynh đệ tương tàn, bị 2 bên lên án, bên quốc gia coi là đâm sau lưng chiến sỹ, bên kia coi chống chiến tranh cách mạng là tay sai đế quốc. Kẹt cứng giữa 2 làn đạn. Nhưng không thể nào khác. Chiến tranh là sát sinh; mà người Việt mình giết nhau nhiều nhất, lâu nhất, hăng say nhất. Hơn 1 triệu người Việt giết chết nhau suốt 30 năm, còn chưa đủ? Từ đâu để cho 'vô minh', 'tà thức', 'cuồng sát nhân sinh', ' lôi kéo nhau vào hỏa ngục' lâu và sâu đến thế? Thế hệ trẻ vẫn còn chất vấn cha ông mình.

Với tò mò của nhà báo, tôi hỏi chuyện các thày cô về chuyến hồi hương đầu năm 2005. Các vị chức sắc của làng có vẻ thận trọng, vì đang còn tính đến chuyến đi thứ 2 dự định trong 77 ngày (11 tuần lễ) đầu năm Đinh Hợi (2007) đang được chuẩn bị; tôi hỏi quý thầy cô có ý kiến cho rằng đoàn đã bị chính quyền trong nước lợi dụng trong chuyến đi? Trả lời: 'Chúng tôi biết chuyện đó. Nhưng chúng tôi nghĩ khác. Chẳng lẽ dư luận quốc tế ngày nay lại nhẹ dạ, đơn giản đến vậy sao. Có ai chỉ lấy một chuyến đi để đánh giá về tự do tôn giáo của một chính quyền trong cả một năm; nghĩ thế là lầm to'. Vậy làng Mai có coi đó là một chuyến hành hương thắng lợi? Trả lời: 'Có chứ. Chúng tôi không dám chủ quan, nhưng thật ra vượt quá hy vọng ban đầu. Các buổi pháp thoại càng về sau càng đông. Chúng tôi in ra đĩa, hàng mấy ngàn đĩa nay còn đưa về trong nước.' Mấy thày làm báo Lá thư làng Mai nói thêm: 'Vui là nhiều quan chức cộng sản cấp cao ở các bộ, các viện, giáo sư đại học, sinh viên khá là đông chăm chú nghe, có vẻ mở lòng tiếp nhận, còn tỏ ra còn khát…'

Một cư sỹ trí thức Việt kiều làm việc ở Lyon (Pháp) từng tham gia tăng đoàn làng Mai về quê cho tôi rõ thêm: 'Các buổi pháp thoại cuối ở Hànội đông ngẹt. Sự đồng cảm tăng lên. Thày cao hứng nói vui: tăng thân làng Mai chúng tôi mới thiệt là cộng sản, không ai có xe riêng, có tiền riêng, điện thoại riêng, nhà riêng mà sống yên vui, yêu thương nhau, có hạnh phúc…; và xã hội chủ nghĩa mà sao lại tìm cách lật nhau, chống nhau, lừa nhau, tham nhũng lan tràn, xì ke ma túy, gái điếm khắp nơi, làm sao có hạnh phúc… Cả hội trường vỗ tay rất lâu khi thày nói rằng người cộng sản, người làm chính trị khi cầm quyền rất cần có đạo đức và cũng rất cần có cuộc sống tâm linh'.

Giữa tăng thân làng Mai và chính quyền cộng sản có điều gì căng thẳng không. Tôi được biết những cuộc thương lượng về chuyến trở về kéo dài từ 2 năm trước, không ít lúc căng, có lúc tưởng như không thành. Nhờ cái duyên - Bụt cho chăng, nên đã thành. Đó là khi họ gặp khó trong quan hệ với các nước và công luận quốc tế cũng như với dư luận trong nước, về vấn đề tôn giáo, họ phải điều chỉnh chính sách. Nói thẳng ra là họ không thể cứng mãi, họ buộc phải tính đến chuyện để một đoàn lớn tăng thân áo nâu về thuyết pháp từ Bắc vào Nam; để đoàn đem sách về đạo Phật về cũng như không kiểm duyệt trước nội dung các buổi pháp thoại.

Theo tin tôi nhận từ 16 Boileau - Paris (sứ quán Việt nam), 'sứ thần' làng Mai đến đây thương lượng về chuyến đi là 'nhà ngoại giao đáng nể'. Mềm mỏng trong đối xử, khá cứng cỏi trong nội dung. Việc tăng đoàn 'đến viếng lăng' - một vấn đề khá nhạy cảm cuối cùng họ chịu để buông lửng, không ghi vào chương trình. Cho đến khi những ngày cuối ở Hànội, đoàn ghé thăm Chùa Một cột xong, người hướng dẫn 'lơ đãng' dẫn sang phía lăng ông Hồ Chí Minh ngay sát đó, đoàn vẫn lặng lẽ đi ra nơi đậu xe, lên xe về nơi nghỉ. Coi như xong, không căng thẳng, rồi không bên nào nhắc đến nữa...

Khéo thật, tôi nghĩ, thế là không làm chính trị chăng.

Đề nghị 7 điểm với cái nhíu mày tạm biệt:

Anh bạn nhà báo từ Hànội sang Paris kể cho tôi ngày cuối đoàn làng Mai ở Hànội, Thiền sư Nhất Hạnh gặp từ biệt Thủ tướng Phan Văn Khải, không khí hòa dịu nhẹ nhàng, nhưng ít ai biết có mấy phút khá căng, khi Thày đưa bản đề nghị 7 điểm về 'Chính sách của nhà nước Việt nam đối với Phật giáo.'

Nội dung trước hết là: tách rời tôn giáo với chính quyền, không có quyền can thiệp vào nhau. Các vị xuất gia sẽ không là dân biểu quốc hội, thành viên của hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc hay của một đảng phái nào, cũng không nhận huân chương của chính quyền; làm như thế là phạm giới.

Hai là nhà nước mời những vị tôn túc trưởng lão Phật giáo làm cố vấn cho ngành lập pháp và hành pháp để tháo gỡ những khó khăn, hàn gắn những đổ nát, xây dựng tình huynh đệ trong cộng đồng Phật giáo, thiết lập truyền thông với nhà nước. Danh sách các vị được mời: Hòa thượng Trí Quang, Trí Tịnh, Nhật Liên, Huyền Quang, Quảng Độ, Phổ Tuệ…

Các điểm tiếp theo là: nhà nước và tôn giáo chung sức xây dựng đạo đức văn hóa, chống tham nhũng và tệ nạn xã hội, cấp hộ khẩu cho giới tu hành, phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất và hoạt động của Ban tôn giáo.

Chỉ liếc mắt thoáng đọc 2 điểm đầu, ông Khải đã nhíu mày, đặt bản văn xuống và không trả lời. Yên lặng và buổi tiếp kết thúc trong xã giao. Thông tấn xã nhà nước và báo chí trong nước nhận nghiêm lệnh không được công bố 7 điểm.

Thày Pháp Ấn cho tôi biết một điểm son của cuộc hồi hương là những cuộc chan hòa anh em giữa các giáo đoàn khác nhau, trong và ngoài nước, Giáo hội Phật giáo Việt nam với Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất, áo nâu xen với áo vàng, Bắc, Trung, Nam hòa hợp, cùng trò chuyện, cùng thiền hành, cùng tụng giới, tiêu biểu nhất là ở chùa Từ Đàm - Huế.

Làng Mai yên tĩnh…

Mùa thu 2006 này, làng Mai từ ngoài nhìn vào vẫn yên tĩnh như một làng quê Việt nam thời xa xưa. Hôm nay lại là 'ngày làm biếng'. Vài tháng một lần, sau những ngày bận rộn, căng thẳng như các lớp học, hội thảo, tiếp khách thập phương, các ngày hội làng, làng công bố một 'ngày làm biếng', cho mọi người thức dậy muộn, nằm nghỉ ngơi, tắm, giặt, đọc sách, viết thư riêng, thăm nhau, đi dạo. Mỗi thành viên mỗi tháng có 40 Euro tiền bỏ túi, tiêu vặt; theo giá tiền 'đồng' trong nước bằng 800.000 đồng, là khá lớn, nhưng ở đây vừa đủ để mua tem, thẻ gọi điện thoại, thiếp chúc mừng, bưu ảnh, chiếc kem, gói kẹo chocolat, túi vải, cuốn sách, bút mực, bàn chài và kem đánh răng…

Thật ra ở Văn phòng làng Mai, các thày cô đang thức khuya dạy sớm, dồn dập công việc. Việc chuẩn bị cuộc hành hương thứ hai vào đầu năm Đinh Hợi (2007) đang rất khẩn trương. Danh sách tăng đoàn, giấy tờ, hộ chiếu, visa. Làm việc với sứ quán Việt nam, với Sứ quán Pháp ở Hànội. Kế hoạch cho từng ngày của 77 ngày hồi hương, theo chủ đề: 'Bồi đắp gốc rễ, khai thông suối nguồn'. Nội dung chính của cuộc trở về này vẫn là hoằng pháp, với một việc quan trọng là tổ chức Đại Trai Đàn, cầu siêu trong cả nước cho tất cả những người Việt anh chị em ta chết trong hơn nửa thế kỷ qua, không kể đứng bên chiến tuyến nào, dưới lá cờ nào, theo đảng phái hay tổ chức chính trị, tôn giáo, địa phương nào. Một cuộc cầu siêu chân thành, sâu sắc. Tôi mong dịp này ai có người thân chết trên biển cả xin thông tin cho biết tên tuổi, ngày và nơi bị nạn trên biển để làng Mai có thể thống kê và lên danh sách cầu siêu, từ đó may ra biết rõ thêm về sự kiện bi thảm này, vì hiện ước lượng quá xa nhau, từ 20 ngàn đến 500 ngàn, con số nào gần sự thật.

Lại còn việc theo dõi bộ phim 'Đường xưa mây trắng' sẽ tiến hành ra sao để lột tả đúng hoặc gần đúng cuộc đời của Bụt, tải được đạo pháp thâm thúy mà tự nhiên, tránh thần bí hóa và chạy theo thị hiếu, nhưng lại hấp dẫn người xem. Việc này không đơn giản, vì bộ phim lớn này sẽ có thể quay với ngoại cảnh ở Ấn độ, Thái lan, Việt nam và Mỹ…Nhân vật đông, nhiều vẻ, cần khung diễn viên có tài, nhập vai thật đạt, sống động, tả được cả tăng đoàn theo Bụt lên đến 1.250 đệ tử, với cuộc sống trong rừng rậm, cả một thế giới động vật: voi, hổ, hươu, nai, cừu, trâu, bò, rắn, trăn, cá sấu, thỏ, sóc, thiên nga, phượng hoàng, gà, vịt, chim sẻ, công, sáo… và thiên nhiên hùng vỹ: thác đổ, đồng cỏ, sông Hằng kỳ vỹ, núi tuyết Hymalaya, bầu trời sao và mây trắng…đều có 'vai diễn' trong phim.

Ngay trước mắt đoàn tăng thân làng Mai sẽ thiền hành giữa thủ đô Paris ngày chủ nhật 22-10 sau cuộc nói chuyện ở Hội trường lớn Mutualité tối 21-10.

Thật là duyên hạnh ngộ đẹp cho tôi được trở về làng Mai mùa thu năm nay. Cuộc đời còn lại của tôi mang dấu ấn cuộc hành hương ngắn ngủi này. Tự tin hơn, yêu đời hơn. Ăn thức ăn đơn giản mà ngon lành hơn. Tim bị bệnh vì đập thất thường nay ổn định khác hẳn trước. Danh lợi hão huyền coi nhẹ từ 16 năm tan biến hẳn như sương khói. Tôi hết đỏ mặt, cao giọng khi tranh luận. Tôi tin hơn ở con đường phi bạo lực, quý trọng gấp bội các chiến sỹ dân chủ trong nước gan góc kiên trì lẽ phải, sự thật và điều thiện, đang nêu gương cho các đảng viên cộng sản còn mê muội sớm từ bỏ tà đạo.

Tạm biệt làng Mai thân thiết, tôi nhớ đến lời Bụt nói với chú bé chăn trâu paria/tiện dân: 'Con ạ, có những điều đông đảo người tin từ lâu là lẽ phải, vậy mà là tà thức đấy!' Đó là tà thức coi tầng lớp paria nhơ nhớp hơn trâu chó, ai đụng vào họ là bị nhiễm bẩn không sao gột rửa. Như tà thức gần đây coi đấu tranh giai cấp và bạo lực là thiêng liêng (!), là động lực thúc đẩy xã hội (!), như tà thức hiện tại coi độc quyền một đảng là chân lý vĩnh cửu (!), bất chấp giá trị dân chủ hiển nhiên của thời đại, bất chấp những kêu gào bất công và oan ức ngút ngàn, ngày đêm vang lên từ ngàn vạn dân oan khắp nông thôn và thành thị quê ta, bất chấp can ngăn của các bậc thức giả trong và ngoài đảng. Mọi nơi đang đòi đa nguyên đa đảng trong trật tự như đòi nước và không khí, coi như chiếc cầu vượt sóng dữ, đúng như lời dạy thâm thúy của Phật: lẽ phải không nằm ở giới quyền quý, cũng không ở giới tăng lữ, nó nằm rộng khắp trong đông đảo chúng sinh. Người cầm quyền phải học cúi đầu cầm bát đi khất thực, thực tế là ra khỏi những dinh thự xa hoa một cách láo xược, khiêm tốn đi xin những lời hay ý đẹp trong người dân thường qua lá phiếu riêng của từng công dân.

Đạo Phật canh tân, đạo Phật trẻ lại đang cùng các lực lượng dân chủ và dân tộc kết hợp đấu tranh chính trị với phục hưng văn hóa, bồi dưỡng tâm linh, đẩy lùi tà đạo và tà thức, độc đảng và bạo quyền, mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt nam luôn quý điều Thiện, chuộng tình huynh đệ, nghĩa đồng bào.

Paris. 18/10/2006.

BÙI TÍN

(Nguồn: Tập san Phật giáo dấn thân)

Bài liên quan

add
close

Kết nối cùng chúng tôi

Ghi danh nhận tin