Học Lịch sử Phật giáo Việt Nam
View: 1773 - Pháp Uyển 14/07/2018 03:07:05 am
1. Con Đường Tơ LụaĐây là từ ngữ chúng ta mượn để nói đến sự du nhập của Phật giáo vào Việt, kỳ thực đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải từ con đường tơ lụa. Con đường tơ lụa chỉ dành cho Trung Hoa. Trước kia họ không nói đến tên con đường tơ lụa, mà chỉ nói con đường của hành lang Lăng Châu. Tức là từ kinh đô Trường An đi về phía Tây qua các tỉnh như Lăng Châu, đến những vùng sa mạc rồi băng qua vùng Trung Á và Tây Á.
Chúng ta biết rằng con đường tơ lụa của Trung Hoa đã có mặt trước trung nguyên cả hai thế kỷ. Từ thời nhà Hán, Trương Kiên là người đầu tiên, mở đầu cho con đường giao thương từ Trung Hoa sang các quốc gia thuộc vùng Trung Á và Tây Á, rồi tới biển Địa Trung Hải; thậm chí con đường này mở ra cho tới các quốc gia phía Đông của La Mã; phía Nam của Liên Xô và qua các nước như Iraq, Iran. Nếu có cơ hội đọc lịch sử Nga sẽ thấy điều này. Con đường này mở ra rất sớm, từ trước kỷ nguyên tới hai thế kỷ, sau đó có một giai đoạn bị cắt quãng. Cho tới thời nhà Đường lập quốc thì mới bắt đầu cho những đoàn quân mở rộng. Tuy nhiên trước thời nhà Đường, đó là thời Giao Tần thế kỷ thứ 5, những đại dịch giả từ vùng Trung Ấn, Bắc Ấn đi theo con đường này vào Trung Hoa như ngài Cưu Ma La Thập,… Điều này cho chúng ta nhận định đây là con đường yếu lộ nhằm giao thương kinh tế.
Con đường tơ lụa có hai đặc tính, một là kinh tế, hai là văn hóa; bên cạnh con đường văn hóa thì tôn giáo đi vào. Ngấm ngầm có mặt trong hai con đường này, ngoài giao lưu văn hóa, kinh tế còn có sự thầm lặng thôn tính, bành trướng địa vực, mở rộng cương vực, mở rộng ảnh hưởng, thôn tính các quốc gia ngoại biên.
Bây giờ người ta hay dùng từ quyền lực cứng và quyền lực mềm, cứng có nghĩa là quân sự, chiến tranh và thôn tính; mềm nghĩa là gặm nhắm dần. Hai phần này luôn có mặt trong tất cả các quốc gia lớn, như Pháp, Mỹ, Trung Hoa,… Thế nhưng tùy vào mức độ văn minh và tính nhân văn của quốc gia đó mà hai con đường này được đánh giá là độc ác hay nhân bản. Đôi khi chúng ta có cái nhìn những công việc phát triển văn hóa, kinh tế giao thương nó chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế của một quốc gia, hoặc là phát triển sự giao lưu hiểu biết của những quốc gia với nhau. Thế nhưng bên trong có hạt mầm của sự mưu đồ thôn tính, mà chúng ta không lường được. Đừng tưởng Đường Tam Tạng tức Đường Huyền Trang khi thỉnh kinh về, viết cuốn Đại Đường Tây Vực Ký, đơn thuần chỉ là việc làm của nhà viết sử, hoặc của nhà văn hóa hay cho dù viết bằng trái tim nhân hậu của người tu. Không phải vậy, mưu đồ của Đường Thái Tông không đơn giản là chấp nhận việc trên là giao thương văn hóa mà công trình của Đường Huyền Trang chi tiết như một nhà thám hiểm. Công việc của Đường Huyền Trang ghi chú rất rõ ràng về những vùng đất ông đã đi qua, dân tộc, thành trì, kinh tế, phong tục tập quán ra sao; ghi chú rất là rõ ràng để cho vua Đường nghiên cứu. Sau đó chúng ta biết rằng những cuộc xâm lăng, mở rộng biên vực qua các quốc gia, vùng phía Tây Trung Quốc. Cho nên mình đừng có đơn giản hóa vấn đề, đó là con đướng văn hóa, kinh tế, mà phải hiểu hàm tàng bên trong là con đường bành trướng thế lực, địa vực, v.v…
Gần đây, vào năm 2004, người Trung Quốc mở ra đến 443 viện Khổng Tử trên 71 quốc gia. Riêng tại Hoa Kỳ có 174 viện. Bộ chính trị trung ương của đảng cộng sản Trung Quốc (Trung Nam Hải) đầu tư một năm với khối lượng tài chánh vô cùng to lớn cho 174 viện Khổng học tại đất nước Hoa Kỳ. Hầu như những viện Khổng học này đều có mặt bên cạnh các trường đại học lớn, nổi tiếng của Mỹ như đại học Harvard. Bên cạnh đó, viện Khổng học chu cấp học bổng cho những sinh viên Mỹ du học, nghiên cứu, tổ chức những lớp lớp ngắn hạn qua Trung Quốc học.
Ngoài những trường chính thức từ bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc đặt ra thì còn có những ngôi trường của Đài Loan tổ chức, với cái tên là Taiwan Academy. Đây cũng là một loại viện Khổng học. Hiện tại họ đã có 213 viện trên 64 quốc gia, riêng Mỹ có 79 văn phòng và 3 viện đại học. Điều quan trọng là trong tất cả các viện Khổng học có những bàn tay tuyên truyền chính trị của đảng cộng sản Trung Quốc nối dài trên đất nước này, chứ không đơn thuần theo qui chế đại học của những quốc gia như Mỹ. Thế nào là bàn tay nối dài của đảng cộng sản Trung Quốc, thứ nhất để tuyên truyền về chính sách của Trung Quốc, thứ hai là không cho phép bàn thảo đối với những vấn đề nhạy cảm, sinh viên không có quyền lạm bàn về Tây Tạng, biển Đông, Thiên An Môn, tức là các vấn đề dân chủ tuyệt đối không được bàn đến..."
PHÁP UYỂN - phiên tả.
Sau đây là Dẫn Ngôn để mời gọi quý vị xem 35 buổi giảng.
DẪN NGÔN
Đạo Phật đã theo bước chân của các vị Thánh Tăng Ấn Độ đến Việt Nam bằng đường thủy và đường bộ vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Thế nhưng phải đợi đến Ngài Khương Tăng Hội từ thủ phủ đất Giao Châu ngược đường lên mạn Bắc vào triều đình nhà Ngô năm 247 Tây lịch dựng lập đạo tràng, dịch Kinh, thuyết Pháp mới được ghi vào văn hiến, để làm chứng cứ thực cho sự có mặt của Đạo Phật trên đất nước này.
Hẳn nhiên, trên quê hương Đại Việt vào những ngày đất nước còn chìm trong bóng tối của Bắc thuộc, cho đến lúc bình minh của nền độc lập, Đạo Phật đã song hành cùng vận nước nổi chìm. Các thiền sư thời Ngô, Đinh, Lê đã cố vấn cho Hoàng đế trong công trình an định triều chính, khai hóa nhân tâm và rèn đúc tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc. Các thiền sư thời Lý, Trần đã vận dụng tinh thần Bồ Tát Đạo chung lòng, chung sức với vua quan và con dân Đại Việt định đô Thăng Long, bảo vệ biên cương quốc thổ, xây dựng nền độc lập phú cường và phát triển tính nhân văn vững chắc rực rỡ cho thế hệ cháu con nghìn sau ngẩng cao đầu, tự hào chủng dân Lạc Hồng trong cụm dân cư bách Việt
Học Lịch sử Phật giáo Việt Nam không chỉ để biết sự có mặt và công lao đóng góp của các vị Thiền Tăng trong quá khứ, mà còn là sự tri ân của chúng ta đối với các bậc tiền nhân đã đem máu xương mình trải xuống trên từng tấc đất, để gìn giữ giang sơn Đại Việt đẹp đẽ, nguyên vẹn biển trời và nền văn hiến đặc thù, nhân văn của tộc Việt, để thế hệ cháu con chúng ta hôm nay không cảm thấy bị tủi nhục khi đứng trước bè bạn năm châu.
Chúng tôi mong rằng những bài học Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam này sẽ nuôi dưỡng được niềm tự tin vào hồn thiêng sông núi Đại Việt của chúng ta đối với tổ tiên nghìn đời truyền lại; để người Việt Nam mãi chói sáng, hòa ái nhưng vẫn rất kiêu hùng như ông cha chúng ta đã từng xây dựng." Mắt Thương Nhìn Đời.