menu

PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI

View: 1165 -     Tâm Nhiên       8/03/2019 06:03:58 am
PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI
PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI

PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI

 

Có những con người đến rồi đi qua mặt đất, trần gian này như một cơn giông tố bão bùng, sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo như vậy.

 

Đấy là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong một thư gởi Phạm Công Thiện, đề ngày 8.8.1966 : “Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.”

 

Đúng vậy, một con người đã đến và đi như huyền thoại giữa cuộc sống thiên diễn, đầy biến động trên quê hương đất nước Việt Nam. Làm sao nói về con người kỳ diệu này ? Vào một chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, ngút ngàn chảy xuống dọc ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam.

 

Thi sỹ lớn lên từ đó, từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh thông minh xuất chúng, học một biết mười, đến độ thông thạo nhiều ngôn ngữ, đọc hàng đống sách đủ loại Đông Tây kim cổ… Suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng, rong chơi và tha hồ tắm sông lội nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng, xa xôi…

 

Rồi bất thình lình, đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một tài năng kiệt xuất, lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha… Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài tiểu luận tham gia, cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa…Những bài viết triết lý, thi ca, viết về các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ (chủ bút tạp chí Phổ Thông, Dân Ta) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là thần đồng, một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.

 

Năm 1957, mới 16 tuổi đã xuất bản Tự Điển Anh Ngữ Tinh Âm, 20 tuổi viết Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, 23 tuổi, viết Tiểu Luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26 tuổi, viết Hố Thẳm Tư Tưởng, Im Lặng Hố Thẳm, Ý Thức Bùng Vỡ, Bay Đi Những Cơn Mưa Phùn, Trời Tháng Tư, Ngày Sinh Của Rắn, Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực, Nikos Kazantzaki, Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria Rilke, Henry Miller, Hoelderlin… làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sỹ, trí thức Sài Gòn, miền Nam thời bấy giờ.

 

Thời kỳ ấy, từ 1966 đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi nguồn mạch sáng tạo, trào dâng chất ngất cho giới văn nghệ. Mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát diệu thường.

 

Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật nổi tiếng, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.

 

Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn. Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành. Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố Thẳm Tư Tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.

Đó là lúc Ý Thức Bùng Vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một thái độ phản kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai miền Nam Bắc phân tranh. Cuộc nội chiến làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong tiêu điều, điêu linh, trầm thống...

 

Sống trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như vậy, một hồn thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái cô đơn ? Cô đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao thanh niên khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu.

 

Yêu nhau cảm động dường nào để cho lòng xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi da diết, trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sỹ yếu gầy. Hình ảnh người ca sỹ yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng mạn giữa trầm trầm, mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:

Cô đơn về trắng sương rừng
Anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình yêu
Anh về phố gục những chiều hư vô
Đời đi trên những nấm mồ
Đau thương em hát cơ hồ khăn tang
Phố chiều thả bước lang thang
Như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời anh
Yêu em câm lặng khô cành thu đông
Lời em như một dòng sông
Đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy triền miên
Một con chim dại lạc miền hoang lương
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
 

Hè xưa phố cũ tuy buồn bã mà vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu mang, lãng đãng. Chàng thi sỹ đa tình đa cảm, trót vương mang dáng dấp nàng thơ gầy guộc, có đôi mắt sầu mộng, u huyền nào đó trên cao nguyên, nghi ngút sương mù bay trắng cả rừng thông. Cũng có thể, từ bên trời Tây phương nhớ về Đông phương với bao niềm xót xa không bờ bến. Bềnh bồng, phiêu phưỡng trong tâm trạng tương tư theo từng cơn gió thổi từ đồi tây sang đồi đông, từ đồi thông qua đồi thu, suốt mười năm trời mơ mộng, nhớ thương, tưởng vọng trong rưng rức ngậm ngùi:

Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về theo giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông
 

Dòng thơ phơ phất trôi đi, dĩ nhiên là ẩn ngữ chập chùng, bóng bẩy… Thi sỹ thả hồn mơ mộng, sầu nhớ trong niềm đau nhói buốt chia ly, xa cách người yêu dấu cũ mơ màng ? Bản sầu ca lãng mạn đẹp mơ hồ trong giọng hát vô thanh, mặc sức cho chúng ta tưởng tượng, hiểu ý thơ theo mỗi cách riêng biệt của mình.

 

Phải chăng, đó là cõi thơ huyền mộng, hư ảo, tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi Nôm, Đà Lạt hay dưới vùng biển Vạn Giã, Nha Trang ? Bỗng nhớ một chiều mưa thấp thoáng tần ngần, thi nhân rời bãi biển cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành, đi về con đường quanh sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực thấy cây khế bừng rộ hoa tim tím bên triền dốc đá hoang thưa:

Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
 

Hoa nở rồi tàn cũng như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy, vẫn còn quyến rũ mị kỳ, cứ ám ảnh chập chờn, thoang thoảng, phảng phất những làn hương. Trước ngày lên đường viễn phương hành, thi nhân leo lên đồi Hải Đức, Nha Trang (nơi ngày xưa vào năm 1963, chàng chán ngán cõi đời đi xuất gia, làm đệ tử thầy Trí Thủ ở đó, với pháp danh Nguyên Tánh) ngồi một mình trên đồi cao, nhìn xuống biển cả muôn trùng vắng lặng, lắng hồn cô đơn, tịch mịch để nghe vọng về bao nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong rưng rưng, nhức nhối:

Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim chiền chiện hót ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u…
 

Âm u hai đường, đông tây đôi ngã thê lương, còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh chim ngàn cứ tung bay cho hết bầu trời tính mệnh bao la của mình. “Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Văn hào Nikos Kazantzaki đã nói như vậy, cũng như triết gia Heidegger làm những câu thơ như âm thầm khích lệ thi sỹ lên đường: “Bước tới và chịu đựng. Sự thất bại và câu hỏi. Trung thành với lối đi duy nhất của mi.”

 

Thi sỹ Phạm Công Thiện đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí, im lặng thực hiện một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc hành ca trên lộ trình hướng về hố thẳm uyên mặc hay uyên nguyên khơi mở.

 

Buông tay vào hố thẳm, mở ra những phương trời hoằng viễn, uyên tư như Rimbaud, Henry Miller, Nietzsche, như Hoelderlin, Whitman, Blaise Cendras, như Nerval, Van Gogh, William Blake, như Emerson, Faulkner, Dostoievsky… những đồng thanh tương ứng với thi sỹ nên luôn luôn xuất thần, ngất trời túy lúy, phóng cuồng ca phiêu đãng, hoan say. Cháy và chảy, cháy và chảy mãi trong hồn, như một lần lúc 24 tuổi, chàng đã từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên Việt Nam : “Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó, chảy trôi như tôi, cùng sống như tôi đang sống : Cháy và chảy, cháy và chảy không ngừng…”*

 

Không ngừng trôi chảy, thi nhân làm cuộc lữ lên đường qua Paris, tiếp tục chuyến đi tuyệt mù viễn xứ vào những phương trời xa lạ. Bước đi một mình một bóng, đơn thân độc mã quá đỗi phong trần, lang thang suốt muôn chiều phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương. Hừng hực ngọn lửa thiêng suốt ngày đêm bừng cháy trong trái tim, đồng thời một dòng sông xanh ngát luôn tuôn chảy bất tuyệt ở trong hồn, nên chàng thi sỹ đã hào hứng ra đi, tấu khúc viễn hành ca khắp ngàn phương muôn lối:

Tôi đi đông chìm
Trời âm u thung lũng khô
Nhiều mây chim bay không nổi
Tôi đi
Dưới kia sụp đổ
Núi Cấm nổ tôi ra
Cửu Long ca từ Tây Tạng
 

Dòng sông Cửu Long bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy gập ghềnh qua các xứ miền Miến Điện, Lào, Campuchia và xuôi dòng cuồn cuộn, cuốn lũ phù sa qua Mỹ Tho, Việt Nam, thành phố quê nhả, một thời tuổi nhỏ của thi sỹ rồi cuối cùng tuôn tràn ra đại hải, trùng dương. Chính dòng sông Cửu Long ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn thi nhân nên chàng luôn mang theo rạt rào trôi chảy suốt trong lòng trên khắp mọi miền viễn xứ.

 

Như ngôi sao băng vụt ngang trời, một mình làm cuộc phiêu lưu, vút bay qua Paris, kinh đô Pháp quốc, có lúc rong rêu sống lưu lạc ở Đức, Do Thái rồi lại về Paris… Không phải để hưởng thụ vinh hoa phú quý gì mà trái lại, tự nguyện sống không nhà, không cửa, tựa như nhánh lục bình trôi phập phềnh trên dòng sông Seine xanh biếc mộng:

Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày
 

Ngày tháng lang bạt kỳ hồ đó, Phạm Công Thiện đi từ bế tắc này đến tuyệt lộ khác như chính chàng tâm sự : “Giai đoạn sống ở Paris dạo ấy là giai đoạn bế tắc nhất trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo bước đi tôi, không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tình yêu, không tương lai, không gì cả... Tôi là một số không to tướng, di động giữa những đường phố Paris. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được thế nào là đói, là nghèo, là khổ, là tuyệt vọng…

 

Đi từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng tôi đã sống đến độ vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu. Vâng, trong cuộc đời hai mươi chín năm trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh bình, trong sạch xanh lơ tựa bầu trời mùa hạ, như những ngày sống ở Paris dạo đó.”**

 

Thời gian vừa bi đát, long đong, vừa thơ mộng, bồng bềnh ấy, kéo dài suốt mấy tháng trời. Cũng may sau đó, chàng được sự giúp đỡ tận tình của nhà thơ Thi Vũ, Nh. Tay Ngàn, họa sỹ Vĩnh Ấn, Trần Quang Hiếu rất nhiều và đặc biệt nhất là nhà văn Henry Miller đã chiếu cố chàng hết lòng, bằng những tấm ngân phiếu gởi từ Hoa Kỳ cũng như Lê Khắc Thanh Hoài, một nàng thơ định mệnh đã đến với chàng, tự nguyện sống chung một cách gần gũi, cận kề, gắn bó, vô ngần mật thiết. Đó là một thiên tình sử đẹp đầm đìa, chia sẻ bao mây hồng gió xám đẫm sương mưa:

Một chút mây và một chút mưa
Hồn em thở nhẹ cõi xa xưa
Buồn bay lên mấy hàng dây thép 
Mây trắng em còn phơi ban trưa…
Từ sông Seine bèo bọt chợ trời
Băng qua cầu bỗng nhớ Montreuil
Đồi Montmartre hẹn em tiền kiếp
Một chút buồn như có gì rơi
 

Dường như đã có hẹn hò nhau đâu từ tiền kiếp xa xôi nào đó rồi, đến bây giờ mới trùng ngộ, tao phùng lại bên bờ sông Seine, nên chi mới gặp nhau là cả hai đều tự động cuốn hút, nhập vào nhau ca hát chan hòa. Lê Khắc Thanh Hoài, gái Huế, một nhạc sỹ dương cầm, viết văn làm thơ đã sống chung chạ với chàng như vợ chồng suốt hơn mười năm trời đằng đẵng ở thành phố Toulouse, miền Nam nước Pháp.

Đó là cuộc tình lâm ly, đầy tình tiết ly kỳ, gay cấn, hấp dẫn mà nàng đã viết lại thành cuốn tiểu thuyết Chuyện Một Người Đàn Bà… Năm Con. Chúng ta hãy nghe nàng thơ nói về Phạm Công Thiện : “Chàng tìm đến tình yêu cũng như chàng tìm đến tôn giáo. Tình yêu cũng phải thần thánh và linh thiêng. Như giọt nước cam lồ tưới tẩm làm tan biến khổ não ưu phiền. Như sức mạnh của thần chú xô người qua bên kia bờ giải thoát. Tình yêu cũng phải có mãnh lực đó. Mãnh lực chuyển hóa và thăng hoa.”***

 

Thăng hoa và chuyển hóa là những nốt nhạc trên cung bậc tình yêu vô điều kiện. Với người thi sỹ thượng thừa, tuy họ sống trọn vẹn, quăng ném cả thân tâm, đắm đuối hết mình, hết sức vào đối tượng yêu thương, nhưng mà họ không hề muốn chiếm hữu, chiếm đoạt gì cả, thành thử không bị đắm chìm hay dính mắc, chẳng nặng nề ôm giữ làm của riêng mình.

 

Tình yêu vô điều kiện ấy, hầu như rất ít người trong chúng ta lãnh hội và thực hiện được phải không ? Gần kết thúc cuốn truyện dài, chàng nói với nàng : “Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh dịu dàng đằm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể, hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. Từ đó, cố vượt ra ngoài tầm nhìn và sự hiểu biết cạn cợt của chính mình. Điều mình thấy như vậy, biết như vậy nhưng không chắc đã là như vậy. Hãy có cái nhìn và sự hiểu biết từ cái điều Không Thể mà Có Thể đó.”***

 

Cho nên dù rất mặn nồng gắn bó, hòa âm tâm huyết, trải qua biết bao niềm thích thú, ru hồn lên tuyệt đỉnh hân hoan, nhưng rồi cũng ngậm ngùi chia tay trong lặng lẽ âm thầm. Chấp nhận cuộc sống ly thân, nàng tự sắp xếp, xoay xuở công việc mưu sinh để cưu mang, nuôi dưỡng năm đứa con còn nhỏ dại, ăn học thành tài.

 

Tuy nhiên, cũng nhờ cuộc tình thâm thiết, sinh động đó mà chàng chuyên tâm vào nghiên cứu, hoàn thành tốt nghiệp Tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne, rồi sau đó giảng dạy triết học Tây phương tại đại học Toulouse ở Pháp quốc. Thời kỳ này kéo dài suốt mấy năm tràn đầy hào hứng, tưng bừng, đám sinh viên Tây tôn sùng, kính phục chàng còn hơn thần tượng.

 

Thế nhưng, lại một lần nữa, từ trên tuyệt đỉnh vinh quang, đang sống trong hạnh phúc, đang được ngưỡng mộ, đang là thần tượng của đám sinh viên Anh, Pháp, Mỹ, Đức… chàng lại vất bỏ giảng đường đại học để ra đi như ngày xưa đã vất bỏ lại sau lưng đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Thật là quá đỗi lạ lùng, giống như triết gia Nietzsche rời bỏ đại học Bases để lên vùng thượng sơn sống ẩn dật, suốt mười năm trời vô ngôn, chìm trong im lặng và im lặng.

 

Những nhận xét của Lê Khắc Thanh Hoài về Phạm Công Thiện thật chí lý : “Tất cả những gì mà một con người bình thường trên thế gian này khát khao đeo đuổi, như tiền tài và danh vọng, thì lại chinh là những điều mà chàng luôn luôn muốn chối bỏ, khước từ, chạy trốn. Chàng chỉ muốn ngoảnh mặt quay lưng, ném quăng những danh từ ấy thật xa thẳm, ra ngoài tâm tư, trí tuệ mình.”***

 

Đúng là như thế, quả nhiên là chàng thực hiện y như vậy. Đã qua rồi thời gian gọi là công thành danh toại ấy, kể từ năm 1983, chàng thi sỹ tự ý khước từ danh vọng cao sang, chối bỏ giảng đường đại học nổi tiếng để bay vèo qua Los Angeles, Hoa Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, chẳng thể nghĩ bàn.

 

Chàng lại tiếp tục Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất, như một tác phẩm thâm thúy, chàng viết năm 1988 ở Garden Grove. Đường của thơ là những nẻo đường ngược gió, là quán trọ, hiên chùa tá túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc mộng, như sương rơi, như chớp lóe… Nghe hơi thở nhẹ vỡ bùng. Từ vô thủy đến vô chung cõi về. Nàng thơ huyền mộng đê mê. Thế thôi chuyển cuộc muôn bề chia phôi:

Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
Có còn chi nữa mà thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng triều tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim
 

Trái tim bốc lửa tam muội làm cháy tan hết những luật lệ phép tắc, những lề thói khuôn khổ, lối mòn cũ rích của xã hội máy móc khô khan, cạn kiệt hết bầu sinh khí, chàng thi sỹ muốn ra đi, khai phá một con đường huy hoàng sáng tạo tân kỳ, mới lạ hơn.

 

Đứng trên tuyệt đỉnh cô liêu, một chiều hoang vu nọ, chàng bỗng nghe văng vẳng những lời ẩn ngữ, mật ngôn huyền bí và chợt thấy thấp thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ miền tuyết trắng Tây Tạng hoang sơ. Biết mình là hành giả Mật tông trong các dãy hang động trên tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn nên trái tim Bát Nhã ứng hiện những nàng tiên huyền diệu, dạo khúc cung đàn mười tám tiếng lòng Không Định rung ngân, khiến cho thi sỹ chỉ còn biết đọc thần chú lim dim dung nhiếp:

Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không
Án đa la tịch mịch hồng
Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên
Bát Nhã là gái thiên tiên
Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ đào
Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn
Trời mưa chim ngủ trên ngàn
Sắt son tình cũ nước tràn sang sông
 

Tiếng đàn tiêu dao, vô thanh mà vang ngân bất tận, lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung hồn rúng chuyển gió sương ngàn, khắp vùng thung lũng, sơn khê. Ơi chao ! Một đóa hồng hoa vụt trổ im lìm như những nàng thiên nữ giáng trần, sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã, phập phồng:

Đã đi rồi có đi không
Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hương
Đi đâu mà lại lên đường
Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
Một bông hồng nở bốn bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào tim
Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần
 

Xuất thần, xuất cốt, xuất tinh huyết, tinh hoa trên cuộc lữ dặm dài. Phải chăng, năm nàng tiên nữ là ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ đã từng xuất hiện, đi qua một cách cụ thể trong đời chàng, nhưng có lẽ không phải vậy mà là ám chỉ một cái gì thâm thúy hơn. Đi vào cõi thơ nhiều tượng trưng, ẩn dụ, hoán dụ này, tha hồ chúng ta hiểu ra nhiều cách bất ngờ thú vị. Tuy nhiên, dẫu sao thì dẫu, cuộc đời của thi nhân vẫn dạt dào cảm hứng từ những nàng thơ trên mặt đất trần gian này. Tình yêu vẫn là tiếng lòng muôn thuở, là chất liệu cho nhà thơ mở rộng phương trời bay bổng sáng tạo, như triết gia Nietzsche tuyên bố: “Những trực kiến, nhập kiến sâu thẳm nhất đều xuất phát từ tình yêu.”

Hay như đạo sỹ Osho : “Tình yêu có thể tạo ra thiên đường ngay bây giờ và ở đây. Đây là cốt tủy thông điệp của tôi : Hãy thương yêu nhiều hơn nữa, nhiều đến mức mà bản thân bạn đơn giản trở thành một dòng suối tình yêu mà không là gì khác.”

 

Còn Phạm Công Thiện thì : “Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc : “Tại sao chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề ?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự tuôn chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”****

 

Vâng, đúng là như vậy, tình yêu, tình dục cùng chung một suối nguồn tuôn chảy mênh mông, không giới hạn giữa đúng hay sai, tốt hay xấu, sạch hay dơ…gì hết cả. Một khi tình yêu dịu dàng phát sinh từ cái đẹp trinh tuyền của tình thương nguyên sơ, nguyên thủy, thì những hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu, thể hiện qua những thục nữ, thuyền quyên, những nàng thơ, tiên nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu điệu hồng nhan là rất đáng trân trọng mà thi nhân gặp gỡ, tao ngộ, trùng phùng, gọi là Con Gái:

Càng xa càng mông lung
Tới gần vẫn lạ lùng 
Nhắm mắt sao lạ quá
Mở ra ồ không cùng
 

Linh hồn con gái, phải chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sỹ mơ màng, mộng mị trong từng trận trận chiêm bao, ảo dị phiêu phiêu:

Một người nằm thở quạnh hiu
Mơ mòng thiếu nữ cô liêu giáng trần
Gió khuya đập cửa bất thần
Giựt mình thức dậy mấy lần chiêm bao
Có nàng tiên dáng cao cao
Nước da mòng mọng hao hao bông hường
Cái đêm lành lạnh chiếu giường
Gió lùa hương lạ bên đường tạt qua
Đêm qua thương nhớ người ta
Tối nay tơ tưởng thiên hà bơ vơ
Tháng ngày tôi nhớ bâng quơ
Những nàng con gái bao giờ gặp đâu
 

Gặp nhau bao giờ chưa, hỡi những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những hương đồng cỏ nội khắp lâm tuyền, biên ải, ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn muôn nơi, hỡi những thuyền quyên Hương, Uyên, Hoài, Loan, Sương… diễm tuyệt, một thuở nào quyến rũ, du dương tận xứ miền Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói Đà Lạt quá mang mang:

Bầy chim bạc má gọi đàn
Thương nhau gặp lại trên ngàn đỉnh cao
Trở về Đà Lạt ngó đào
Ghé thăm Liên Chiểu thuở nào yêu nhau
 

Hãy yêu thương nhau đi hỡi nhân loại đang sống trên quả địa cầu mầu nhiệm này. Hãy hát bản tình ca muôn thuở đại bi tâm. Thầm cảm nhận, thấm thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào, tuyệt bích tình thương.

Thấu thị nhân sinh, tình yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn. Tình thương yêu tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng chim Ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương khói vô vi, trở thành bồ đề tâm diễm tuyệt miên trường:

Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy cúng dường
Lôi bồ đề tâm dậy
Chấn động khắp mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô lượng
Lôi bồ đề tâm dậy
Địa động cả mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm chẻ đứt Kim Cương
 

Khi thi nhân quỳ xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là lúc Bồ đề tâm bừng dậy tỏa chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Bồ đề tâm chính là đại bi tâm, có thể làm sụp đổ tất cả mọi ác pháp. Hành động quỳ lạy hết thảy mọi sự như thế, thể hiện một tâm hồn đã nhập diệu vào vô ngã, vắng lặng cái tôi, vắng lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham chấp, chỉ còn cái đang là tỏa sáng ánh thái dương.

 

Đó là sự chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, như thi sỹ từng phát biểu : “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần hai mươi năm.

 

Từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên mười một năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles, sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại với thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên, tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình.

 

Cái “tôi” ở trên đã trở thành một cái gì khác. Không biết là cái gì ? Cũng chẳng bận tâm biết đến làm gì, chỉ biết ở đây và ở đó vẫn còn động đậy nhẹ nhàng những bước chân thầm kín, những bước chân lặng lẽ, thong dong bình thản trở về sự im lặng.”*****

 

Trên ngõ về im lặng, im lặng vô ngần giữa bốn bề, mười phương yên tĩnh tịch nhiên, như nhan đề một tập thơ của chàng Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im, viết trên khắp nẻo phiêu bạt giang hồ thế giới và được Hương Tích thư quán của Tuệ Sỹ xuất bản, năm 2009 tại Sài Gòn.

 

Sự im lặng nhập thần xuất cốt, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu mà Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu, ngay từ lúc còn tuổi thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, khoảng năm 1960. Một chiều hiu hắt nọ, đang nằm đọc sách thiền, hoát nhiên chàng đứng bật dậy, quỳ lạy đất trời, khi bắt gặp Thiền tông : “Tôi quỳ xuống lạy lung tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn, lạy vách tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất từ mấy ngàn năm nay.”**

 

Hay một lần nơi thành phố Garden Grove ở California, năm 1988, trong căn phòng trống trải, cô tịch vô vi, thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp giới vô ngần : “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp người, nó không khác người khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái đất, nó là tất cả những định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con bướm, con quạ, trái cam, chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là luồng ánh sáng và đêm tối. Nó là cơn ác mộng trong đêm khuya và cơn bừng tỉnh lúc rạng đông…Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ, mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…

 

Nó là sức mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối hậu của chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của một đóa hoa hồng tơi tả…”******

 

Rồi một lần kia, nhà thơ cô đơn rờn lạnh, bước lê la, tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời, ven bãi biển Laguna Beach bên Mỹ Châu xa xăm bỗng nhập thần mộng, thấy thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều hiện về thấp thoáng, chập chờn trong cơn gió thoảng vi vu:

Năm tàn nằm mớ Nguyễn Du
Kiều trôi đâu mất la phù dặm khơi
Cuốc kêu bảng lảng tháp hời
Nhắc tên người cũ rã rời cuối năm
 

Trầm tư bên một góc quán cà phê ở Glebe, trên vùng đồi cao Earlwood, nhìn xuống dòng sông xanh, gần thành phố Sydney ở tận bên kia bờ Úc Châu, thi nhân chợt nghe ra tiếng ngựa hý, tiếng đàn vô thanh của Mã Minh và thấy Long Thọ lang thang dưới ánh trăng thái cổ ảo huyền :

Bài liên quan

add
close

Kết nối cùng chúng tôi

Ghi danh nhận tin